Nơi chia sẻ những thông tin với tất cả mọi người

Trong bối cảnh trên thế giới đang diễn ra chiến dịch xuyên tạc lịch sử về Chiến tranh thế giới lần thứ 2, thiết nghĩ cần nhìn lại vai trò của Liên Xô trong cuộc chiến tranh này.

Tham vọng của một số nước lớn đòi phân chia lại thế giới

Hệ thống quan hệ quốc tế dựa trên cơ sở Hiệp ước Versailles (Treaty of Versailles) được ký kết ngày 28-6-1919 là dấu mốc lịch sử kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ 1.

Nhưng hiệp ước đó không tạo ra sự bảo đảm tin cậy để duy trì hoà bình thế giới bởi trong nội dung của nó đã hàm chứa tđịnh hướng chống Liên Xô-nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới hình thành sau Chiến tranh thế giới lần thứ I.

Ngoài ra, Hiệp ước Versailles phản ánh tham vọng của các nước Phương Tây muốn đưa các nước bại trận trong Chiến tranh thế giới lần thứ 1 vào thế bị lệ thuộc vào các nước giành chiến thắng, trước hết là Mỹ, Pháp và Anh. Do đó, Hiệp ước Versailles đã không làm dịu bớt mà thậm chí còn làm gia tăng những mâu thuẫn cơ bản đã từng phát sinh giữa các nước lớn trước chiến tranh.

Hiệp ước Versailles đã tạo ra và duy trì ưu thế đơn phương cho một số quốc gia, nhưng lại làm thiệt hại lợi ích của các nước khác, gieo mầm cho một cuộc chiến tranh thế giới mới vẫn theo hướng phân chia lại thế giới. Trong đó, một bên là nước Đức vẫn chưa từ bỏ tham vọng giành vị thế vượt trội trên thế giới, còn bên kia là các đối thủ của Đức nỗ lực để duy trì và củng cố vị thế của họ đã giành được trong Chiến tranh thế giới lần thứ 1.

Do đó, hình thành mâu thuẫn và xung đột giữa một bên là Anh, Pháp và Mỹ là những nước chiến thắng, với bên kia là nước Đức bị bại trận. Trong khi đó, chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đã đạt tới đỉnh cao phát triển mạnh cũng đang theo đuổi tham vọng bành trướng xuống Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương, tất yếu xung đột với lợi ích địa chiến lược của Mỹ, Anh và nhiều quốc gia khác trên thế giới.

Trong khi đó, hình thành so sánh lực lượng mới trên trường quốc tế sau Cách mạng Tháng Mười, trong đó Liên Xô hoàn thành công cuộc công nghiệp hóa vào những năm 1930 và trở thành một cường quốc lớn đã tạo ra một xu thế mới trong nền chính trị thế giới. Đó là cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống chính trị, kinh tế và hai hệ thống tư tưởng.

Do đó, các nước tư bản vốn đối kháng nhau về lợi ích địa-chính trị, nay quay sang liên kết lại với nhau nhằm chống Liên Xô và hy vọng thông qua cuộc đối đầu với Liên Xô sẽ giải quyết được, hoặc ít nhất là làm giảm bớt mâu thuẫn gay gắt giữa các cường quốc Phương Tây.

Năm 1931, quân phiệt Nhật Bản mở chiến dịch tiến công Mãn Châu Lý, đánh dấu giai đoạn bùng phát hàng loạt hành động xâm lược ở châu Á và dẫn tới cuộc chiến tranh Trung-Nhật vào năm 1937. Nhật Bản còn có kế hoạch chiến tranh đánh chiếm các khu vực ở Viễn Đông của Liên Xô. Quyết định cuối cùng của Nhật Bản sẽ phụ thuộc vào kết cục cuộc chiến trên mặt trận Xô-Đức.

Năm 1936, Italia và Đức điều quân đến Tây Ban Nha để hỗ trợ cho các lực lượng phát xít đang gây ra cuộc nội chiến ở quốc gia này. Cũng trong năm đó, vào ngày 25-10-1936, Đức và Italia ký hiệp ước đồng minh, tạo cơ sở bắt đầu hình thành "khối trục" gồm Berlin-Roma. Một tháng sau đó, hiệp ước chống Liên Xô được ký kết giữa Đức và Italia. Đây là cơ sở pháp lý để hai nước xây dựng liên minh các nước xâm lược về sau này, đứng đầu là Đức quốc xã do Hitler lãnh đạo.

Hitler đã từng công khai tuyên bố về ý đồ tiến hành chiến tranh xâm lược trong bài phát biểu của y trước các tướng lĩnh Đức vào ngày 3-2-1933, trong đó Berlin “sẽ tiến hành chiến tranh giành giật không gian sinh tồn ở phía đông” và mở đầu quá trình “Đức hoá” toàn bộ thế giới.

Từ đó, nước Đức bắt đầu ráo riết vũ trang, công khai hô hào xét lại hệ thống quan hệ quốc tế dựa trên Hiệp ước Versailles, làm thay đổi bầu không khí chính trị ở châu Âu. Các lực lượng quốc xã chủ trương thành lập "Đế chế của dân tộc Đức" trong đó “dân tộc Đức thượng đẳng” sẽ cai trị “các dân tộc hạ đẳng” Xla-vơ và với các dân tộc khác trên thế giới.

Hitler đã từng khẳng định: "Cuộc đấu tranh sắp tới của nước Đức có ý nghĩa hơn nhiều là một cuộc chiến tranh. Tính đến lãnh thổ rộng lớn của Liên Xô, để hoàn thành cuộc đấu tranh này không chỉ là đập tan các lực lượng vũ trang của Liên Xô mà còn phải chia nhỏ lãnh thổ Liên Xô thành nhiều quốc gia độc lập và những nước mới thành lập đó sẽ ký kết hiệp ước hoà bình với nước Đức”.

Giới tinh hoa chính trị ở các nước châu Âu hồi đó biết rõ các kế hoạch của Hitler nhưng đã không ngăn cẩn mà thậm chí đã tạo điều kiện cho tên trùm quốc xã này thực hiện các kế hoạch đó.

Năm 1934, Bộ trưởng ngoại giao Anh Anthony Eden trong chuyến thăm nước Đức đã từng tuyên bố: "Bằng cách tăng cường vũ trang, nước Đức góp phần to lớn cho châu Âu trong việc đập tan nguy cơ chủ nghĩa cộng sản”. Ngoài sự ủng hộ về tin thần và chính trị, các tập đoàn tài chính và công nghiệp Anh và Mỹ đã giúp đỡ nước Đức trong việc xây dựng tiềm lực kinh tế quân sự.

Tính tổng cộng, các tập đoàn của Anh và Mỹ đã đóng góp tới 20 tỷ đống mác Đức cho quá trình hiện đại hoá trang bị của quân đội Đức. Ngoài ra, nước Đức đã nhận được vốn đầu tư trên 31 tỉ đồng mác để hiện đại hoá kinh tế và quân phiệt hoá. Nhờ đó, sản xuất quân sự của nước Đức từ năm 1934 đên năm 1940 tăng 22 lần. Trước chiến tranh, nước Đức nhận được từ phía Anh, Pháp và Mỹ khoảng 50% tài nguyên và vật liệu cần thiết cho nền kinh tế quân sự của họ.

Như vậy, với sự giúp đỡ của các nước Phương Tây, nước Đức đã có cơ sở nền tảng về tư tưởng, chính trị và kinh tế để phát động Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Các nước Phương Tây hồi đó hy vọng rằng Hitler sẽ không nhằm mũi tiến công vào họ mà chỉ nhằm vào kẻ thủ chủ yếu là Liên Xô ở phía Đông. Nhưng họ đã tính toán sai lầm về chiến lược.

Nỗ lực của Liên Xô ngăn chặn nguy cơ chiến tranh thế giới mới

Trong tính thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Liên Xô đã nỗ lực hoạt động ngoại giao để thành lập hệ thống an ninh tập thể nhằm ngăn chặn hành động xâm lược của Đức và Nhật Bản.

Tháng 7-1933, theo sáng kiến của Liên Xô, Công ước xác định hành động xâm lược đã được ký kết. Tiếp đến, Liên Xô đề xuất sáng kiến ký kết hiệp ước Thái Bình Dương với sự tham gia của Mỹ, Anh, Pháp. Liên Xô còn đề xuất ký kết hiệp ước liên minh với Pháp, Ba Lan, Tiệp Khắc và các nước khác ở châu Âu.

Sau khi gia nhập Hội quốc liên năm 1934, vào năm 1935, Liên Xô ký nhiều hiệp ước quan trọng về giúp đỡ lẫn nhau với Tiệp Khắc và Pháp. Tháng 1-1936, Liên Xô đề nghị Anh và Pháp ký kết hiệp ước ba bên nhưng đã không được hai nước này đó ủng hộ.

Trong khi đó, Anh, Pháp, Đức và Italia lại ký kết Hiệp ước Munich vào tháng 9-1938, theo đó một vùng lãnh thổ của Tiệp Khắc sẽ trao trả cho nước Đức, trên thực tế là Anh và Pháp đã tiếp tay cho Đức tiến hành xâm lược. Ba Lan và Hunggari cũng tham gia vào quá trình phân chia Tiệp Khắc. Ban lãnh đạo Liên Xô coi hành động này là một âm mưu của các nước đế quốc chống Liên Xô.

Không dừng lại trước mọi khả năng có thể ngăn cản chiến tranh bùng nổ ở châu Âu, ngày 7-4-1939, chính phủ Liên Xô một lần nữa đề nghị Anh và Pháp bắt đầu cuộc đàm phán ba bên về sự giúp đỡ lẫn nhau trong trường hợp xảy ra chiến tranh xâm lược ở châu Âu, trong đó có cam kết giúp đỡ tất cả các nước Đông Âu một khi họ bị Đức xâm lược.

Thế nhưng, chính phủ các nước Anh, Pháp và Ba Lan không muốn ký kết hiệp ước liên minh với Liên Xô. Trong tình hình đó, Liên Xô buộc phải đơn phương tìm kiểm giải pháp nhằm ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược từ phía Đức, đồng thời Liên Xô phải tính đến toán để không bị cô lập về chính trị trong bối cảnh cuộc chiến tranh đang gần kề.

Như vậy, trước khi Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ, các nước hàng đầu thế giới một mặt bị chia rẽ thành các phe phái chính trị quân sự thù địch, mặt khác liên kết với nhau trong một liên minh chống Liên Xô.

Ngày 11-8-1939, Hitler đã đánh giá tình hình chính trị quân sự lúc đó trong bản tuyên bố nổi tiếng: "Tất cả những gì tôi đang làm đều nhằm chống lại nước Nga. Nếu Phương Tây quá ngu xuẩn và mù quáng không nhận thấy điều đó, thì tôi buộc phải đập tan khối liên minh các nước Phương Tây và sau khi đánh bại họ, tôi sẽ chuyển sang tiến công Liên Xô với tất cả sức mạnh đã tích luỹ được".

Sau khi thất bại trong việc thuyết phục Anh và Pháp ký kết hiệp ước liên minh, Liên Xô đứng trước hai sự lựa chọn: ký kết hiệp ước không tiến công lẫn nhau với nước Đức để có thời gian hoãn binh, hoặc phải đơn phương đối mặt với nguy cơ chiến tranh đang gần kề từ phía nước Đức.

Liên Xô đã phải chọn phương án đầu. Đây là cách lựa chọn duy nhất đúng của Liên Xô. Bằng hiệp ước này, Liên Xô loại bỏ khả năng tham chiến với nước Đức vào năm 1939 vì lúc đó Matxcơva chưa sẵn sàng đối phó với một cuộc chiến tranh trên quy mô lớn.
Hồng quân Liên Xô chưa có đủ số lượng nhân lực cũng như vũ khí trang bị và do đó có thể bị thất bại lớn trong cuộc đối đầu với nước Đức.

Bằng việc ký kết hiệp ước không tiến công lẫn nhau với nước Đức, Liên Xô đã có điều kiện để tăng cường lực lượng, tạo điều kiện cho họ đứng vững trong thời kỳ đầu của chiến tranh vào năm 1941.

Hành động của Hitler tiến công Ba Lan vào ngày 01-09-1939 mở đầu cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kéo dài tới 6 năm và trở thành một trong những giai đoạn có tính bước ngoặt quan trọng nhất trong lịch sử thế kỷ XX, trong đó chiến trường chủ yếu diễn ra ở châu Âu và châu Á.

Vào ngày 3-9-1939, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức, sau đó tham gia chiến tranh về phia liên minh chốn phát xít có các nước Áo, Tân Tây Lan, Ấn Độ, Liên minh Nam Phi và Canada. Còn liên minh với Đức có Italia và Nhật Bản, sau đó có thêm Hunggari, Rumani, Bungari và Croatia.

Vai trò quyết định của Liên Xô trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức

Ngày 22-6-1941, Đức và đồng minh tiến công Liên Xô, mở đầu cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại.

Trên mặt trận Xô-Đức có tính quyết định trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, Hồng quân Liên Xô đã tiến hành các chiến dịch và trận đánh cực kỳ ác liệt, gây nhiều tổn thất có tính quyết định đối với phát xít Đức và buộc chúng phải rút lui. Liên Xô đã phải thực hiện một cuộc sơ tán và di chuyển lớn nhất trong lịch sử thế giới để đưa nền công nghiệp và dân chúng từ lãnh thổ phía tây sang phía Đông.

Trong trận đánh ở ngoại ô Matxcơva, phát xít Đức lần đầu tiên phải nếm mùi thất bại kể từ ngày đầu chiến tranh.

Tuy nhiên, đến mùa hè và mùa thu năm 1942, quân đội Liên Xô đã bị tổn thất lớn trên sườn phía nam của mặt trận Xô-Đức, vì thế quân Đức đã có điều kiện tiến sát bờ sông Volga và Bắc Capca.

Mặc dù bị lâm vào tình trạng cực kỳ khó khăn trên mặt trận Xô-Đức, Hồng quân Liên Xô vẫn kịp thời tổ chức lại lực lượng và đập tan kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” của phát xít Đức.

Nền kinh tế Liên Xô đã bắt đầu sản xuất loại vũ khí mới, cán bộ chỉ huy quân sự có được nhiều kinh nghiệm cần thiết, tạo tiền đề để thay đổi cục diện chiến lược trên mặt trận Xô-Đức.

Ngày 2-2-1943, Hồng quân Liên Xô giành thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong trận đánh Stalingrad, tạo ra bước ngoặt căn bản trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại nói riêng cũng như trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2 nói chung.

Tiếp đến, Liên Xô giành chiến thắng trong chiến dịch “đấu xe tăng” lớn nhất trong lịch sử ở ngoại ô Kursk và Dnheprosk và hoàn toàn giành lại quyền chủ động chiến lược. Bộ chỉ huy quân Đức buộc phải điều động lực lượng từ các mặt trận khác và tập trung lực lượng dự bị vào hướng chống Liên Xô.

Trong điều kiện đó, các nước đồng minh đã giành chiến thắng trước quân Đức ở Bắc Phi.

Trong các chiến dịch tiến công tiếp sau đó, Hồng quân Liên Xô đã giải phóng Ukraine, Belarus, Moldova, các nước cộng hoà cận Ban Tích, giải phóng thành phố Leningrad và bán đảo Crimea.

Năm 1944, quân đội Liên Xô đã đuổi quân Đức ra khỏi biên giới quốc gia và chuyển hoạt động quân sự sang lãnh thổ các nước khác.

Chỉ tính riêng trên mặt trận Xô-Đức, Hồng quân Liên Xô đã đánh tan tất cả các cụm lực lượng chiến lược của phát xít Đức, bao gồm 314 sư đoàn và 47 lữ đoàn tinh nhuệ nhất. Trong tình thế đó, các nước đồng minh với phát xít Đức gồm Rumani, Bungari, Phần Lan và Hunggari rút khỏi cuộc chiến.

Tháng 6-1944, các nước đồng minh chống phát xít gồm Mỹ, Anh và Pháp mở mặt trận thứ hai đổ bộ lên vùng Noormandi của Pháp. Lúc đó phát xít Đức vẫn còn rất mạnh nên các lực lượng của Anh và Mỹ bị thất bại nặng nề trong chiến dịch Aden vào tháng 1-1945.

Theo đề nghị của thủ tướng Anh, Chursill, Hồng quân Liên Xô đã kịp thời điều động lực lượng tới chi viện cho quân đồng minh và tạo điều kiện cho họ chuyển sang thế tiến công.

Đầu năm 1945, Hồng quân Liên Xô đập tan các lực lượng lớn của Hitler trên lãnh thổ Ba Lan và Đông Phổ, chiếm thành phố Berlin và phối hợp với quân đồng minh để hoàn toàn tiêu diệt phát xít Đức.

Hoạt động trên một phòng tuyến rộng, Hồng quân Liên Xô đã giáng những đòn quyết định vào phát xít Đức, giải phóng hoàn toàn các nước Trung và Đông-Nam châu Âu, buộc quân Đức phải đầu hàng. Ngày 8-5-1945, ở ngoại ô thủ đô Berlin.

Hiệp ước đầu hàng vô điều kiện của phát xít Đức đã được ký kết, chấm dứt Chiến tranh thế giới lần thứ 2 ở Châu Âu. Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Liên Xô kết thúc thắng lợi.

Mặc dù có nhiều nước tham gia mặt trận đồng minh chống phát xít trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ 2, nhưng Liên Xô phải chịu gánh nặng chủ yếu.

Trên mặt trận Xô-Đức diễn ra 37 chiến dịch tiến công quy mô lớn nhằm mục tiêu chiến lược, trong khi đó trên mặt trận phía tây chỉ có 6 chiến dịch, trên mặt trận Italia và Bắc Phi-3 chiến dịch. Tổng thiệt hại về nhân lực của quân Đức trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2 và 13,4 triệu người trong đó thiệt hại trên mặt trận Xô-Đức là 10 triệu người. Trong khi đó, thiệt hại về nhân lực của Liên Xô trên mặt trận Xô-Đức là gần 27 triệu người, trong đó có 8,6 triệu quân nhân xô-viết hy sinh trên các mặt trận.

Đánh giá về vai trò của của Liên Xô trong việc đập tan chủ nghĩa phát xít và giành chiến thắng trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, trong một bức điện của Thủ tướng Anh Chursill gửi Stalin ngày 27-10-1944 có ghi: "Quân đội Liên Xô đã đập tan bộ máy quân sự của phát xít Đức".

Còn Tổng thống Mỹ Roozevelt khẳng định: "Xét về quan điểm chiến lược lớn, thì một thực tế không thể bác bỏ là số lực lượng và vũ khí của quân Đức do người Nga tiêu diệt lớn hơn rất nhiều so với số tương tự của tất cả 25 quốc gia đồng minh chống phát xít khác cộng lại”


Đại tá Lê Thế Mẫu


 Cuộc duyệt binh lịch sử Kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười vào ngày 7/11/1941 trên Quảng Trường Đỏ của Matxcơva.
Ngay sau cuộc duyệt binh lịch sử Kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười vào ngày 7/11/1941, các đơn vị tham gia duyệt binh tiến thẳng ra mặt trận vì lúc đó quân Đức đã ở trước cửa ngõ Matxcơva.
Cờ của Hồng quân Liên Xô dược treo lên trên nhà Quốc Hội Đức (5/1045). 
 Duyệt binh mừng Chiến thắng trong Chiến tranh giữ nước vĩ đại ngày 9/5/1945 trên Quảng Trường Đỏ của Matxcơva.
Cờ của phát xít Đức được các chiến sỹ Hồng quân ném vào lửa để đốt trên Quảng Trường Đỏ trong Duyệt binh mừng Chiến thắng trong Chiến tranh giữ nước vĩ đại ngày 9/5/1945 trên Quảng Trường Đỏ của Matxcơva.
Cờ của phát xít Đức được các chiến sỹ Hồng quân ném vào lửa để đốt trên Quảng Trường Đỏ trong Duyệt binh mừng Chiến thắng trong Chiến tranh giữ nước vĩ đại ngày 9/5/1945 trên Quảng Trường Đỏ của Matxcơva.

0 nhận xét Blogger 0 Facebook

Post a Comment

 
Lọ Lem © 2013. All Rights Reserved. Powered by Blogger
Top